Trong đại dịch COVID-19 vừa qua ngành nông nghiệp Việt nam đã thể hiện rõ vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế để đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia mà chuyển đổi số được đánh giá là chìa khóa để ngành nông nghiệp tận dụng được những cơ hội sau đại dịch.
Dân số chúng ta đang gia tăng rất nhanh trong những năm gần đây do vậy chúng ta cần tập trung phát triển trồng lương thực nhiều hơn để đảm bảo nguồn tài nguyên tối thiểu phục vụ cho cuộc sống của người dân do vậy ngành nông nghiệp đang còn nhiều thách thức phải vượt qua, giảm tác động của môi trường và tối đa hóa sự hài lòng của người tiêu dùng, đảm bảo thu nhập công bằng cho nông dân khi gặp các biến động về thời tiết, cải thiện lợi nhuận trong điều kiện môi trường không thuận lợi và tăng cường tính minh bạch trong toàn bộ chuỗi cung ứng là vấn đề cốt lõi trong quá trình chuyển đổi số ngành nông nghiệp.
Thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam
Đại dịch COVID-19 đã đem lại hàng loạt khó khăn cho nền nông nghiệp Việt Nam. Trong năm vừa qua, chúng ta phải đối mặt với việc bế tắc trong xuất khẩu nông sản khi các thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc bị tác động lớn.
Việt Nam là một nước thường xuyên bị tác động bởi biến đổi khí hậu, thiên tai, khiến nền nông nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Những mối lo về việc biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao gây ngập lụt ở các đồng bằng, hạn hán ở miền Trung và Tây Nguyên hay các đợt rét đậm ở Bắc Trung Bộ sẽ vẫn luôn là những quan ngại thường trực với bà con nông dân.
Số lượng doanh nghiệp nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số các doanh nghiệp cả nước, có tới 95% doanh nghiệp nông nghiệp có quy mô nhỏ và vừa sẽ là những thách thức lớn trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi sản phẩm nông nghiệp.
Các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao của Việt Nam chủ yếu tập trung ở một số lĩnh vực cơ bản như: trồng rau, trồng hoa và chế biến nông sản, chăn nuôi. Vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp VN năm 2023 ước tính đạt 23,18 tỷ đô, tăng 3,5% so với năm trước.
Theo công bố của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến tháng 10/2024, tổng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam ước đạt khoảng 4,8 tỷ USD, với khoảng 1.300 dự án đang hoạt động. Sự đầu tư chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chế biến thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ sinh học.
Số lượng nhà đầu tư cũng chưa nhiều, trong đó các nước đã đầu tư vào Việt Nam năm 2024 như Singapore là 1,2 tỷ USD, Thái Lan là 800 triệu USD, Malaysia là 600 triệu USD, Hàn quốc là 1,5 tỷ USD vào nông nghiệp Việt Nam và 85% - 90% lượng hàng nông sản của nước ta đưa ra thị trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các “thương hiệu” nước ngoài. Vì vậy, việc bị bán giá thấp, bị o ép vẫn là những câu chuyện thường ngày đối với hàng hóa Việt Nam khi xuất khẩu. Đó là chưa kể tới rào cản chống bán phá giá, môi trường, rào cản kỹ thuật. Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và các giải pháp số phục vụ ngành và đáp ứng như cầu ứng dụng công nghệ số trong quản lý vận hành từ trang trại đến thành phẩm
Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp nông nghiệp Việt khi thực hành ESG
Chuyển đổi số đã thay đổi mạnh mẽ cách thức hoạt động của nền kinh tế toàn cầu, và Việt Nam không phải ngoại lệ. Nền kinh tế số đặt ra yêu cầu về tính minh bạch, hiệu quả và bền vững cao hơn đối với các doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, ESG nổi lên như một bộ chỉ tiêu quan trọng giúp đo lường không chỉ hiệu suất kinh tế mà còn cả tác động đến môi trường và xã hội cũng như mức độ quản trị của doanh nghiệp
Môi trường (E - Environmental): Trong nền kinh tế số, việc sử dụng tài nguyên tự nhiên có xu hướng giảm bớt nhờ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải đối mặt với thách thức từ việc tiêu thụ năng lượng, phát thải khí nhà kính từ trung tâm dữ liệu, và tác động lâu dài từ chuỗi cung ứng. Việc áp dụng ESG giúp doanh nghiệp giảm thiểu tác động này thông qua các chiến lược giảm phát thải carbon, sử dụng năng lượng tái tạo và tối ưu hóa quy trình sản xuất.
Xã hội (S - Social): Các tiêu chuẩn xã hội trong ESG yêu cầu doanh nghiệp phải chú trọng đến phúc lợi của người lao động, đảm bảo quyền lợi và môi trường làm việc an toàn, bình đẳng. Trong nền kinh tế số, doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo nhân sự, phát triển lực lượng lao động số và xây dựng văn hóa doanh nghiệp dựa trên sự đa dạng và hòa nhập. Đây là những yếu tố quyết định đến sức cạnh tranh và khả năng giữ chân nhân tài trong môi trường kinh doanh ngày càng khốc liệt.
Quản trị (G - Governance): Quản trị tốt là nền tảng để doanh nghiệp phát triển bền vững. Trong thời đại kỹ thuật số, điều này càng quan trọng hơn khi các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến bảo mật dữ liệu, quyền riêng tư và tuân thủ quy định pháp luật. Việc áp dụng các chỉ tiêu ESG giúp doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản trị minh bạch, hiệu quả và tuân thủ đầy đủ các quy định pháp lý, từ đó nâng cao uy tín và niềm tin từ đối tác, khách hàng và nhà đầu tư
Nguồn tin: Theo dangcongsan.vn
Ý kiến bạn đọc