Theo báo cáo của Vụ Kế hoạch, tính đến cuối tháng 11/2023, cả nước gieo cấy 7.377,3 nghìn ha lúa, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước (CKNT); đã thu hoạch 6.705,4 nghìn ha, giảm 2,2% với năng suất bình quân đạt 61,4 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha; sản lượng thu hoạch 41,2 triệu tấn, giảm 0,2%.
Về chăn nuôi, đàn trâu giảm khoảng 1,0%, đàn bò tăng khoảng 0,6%, đàn lợn tăng 4%, đàn gia cầm tăng 3% so CKNT. Hiện tại, cả nước không có dịch Nhiệt thán và vẫn còn rải rác ổ dịch cúm gia cầm, dịch tả lợn Châu Phi, lở mồm long móng, Trong 11 tháng qua, số gia súc, gia cầm chết và tiêu hủy 61.874 con (36.606 gia cầm và 25.268 gia súc).
Về lâm nghiệp, cả nước chuẩn bị được 95,14 triệu cây giống; trồng được 20,4 nghìn ha rừng, giảm 63,5% so với CKNT; sản lượng gỗ khai thác 2.074,2 nghìn m3, tăng 2,6%. Lũy kế 11 tháng, cả nước chuẩn bị trên 1.031,64 triệu cây giống; trồng được 220,7 nghìn ha rừng, giảm 15,3%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 18.237,6 nghìn m3, tăng 2,9%.
Về thủy sản, tháng 11, sản lượng nuôi trồng đạt 550,6 nghìn tấn, tăng 5,2%. Tính chung 11 tháng, sản lượng nuôi trồng đạt 4.903,6 nghìn tấn, tăng 4,2%; trong đó, cá tra 1.593,6 nghìn tấn, tăng 3%; tôm 1.100,4 nghìn tấn, tăng 5,9% (tôm sú đạt 252,6 nghìn tấn, tăng 1,5%; tôm thẻ chân trắng 779,7 nghìn tấn, tăng 7,3%). Thủy sản khai thác sản lượng đạt 285,7 nghìn tấn trong tháng 11, giảm 0,4%. Tính chung 11 tháng, sản lượng 3.569,9 nghìn tấn, giảm 0,4%; trong đó, khai thác biển đạt 3.381,8 nghìn tấn, giảm 0,5%.
Trong 11 tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu NLTS ước đạt 85,13 tỷ USD, giảm 5,9% so với CKNT. Do giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm sâu, nên tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 47,84 tỷ USD, giảm 2,7% so với CKNT. Trong đó, nhóm thuỷ sản 8,24 tỷ USD, giảm 18,9%; lâm sản 13,02 tỷ USD, giảm 17%; đầu vào sản xuất 1,82 tỷ USD, giảm 17,8%. Riêng nhóm nông sản và chăn nuôi có giá trị tăng, nông sản 24,3 tỷ USD, tăng 17,1%. Đến nay, có 6 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 3 tỷ USD, đặc biệt là gạo lần đầu tiên đạt trên 4 tỷ USD, rau quả đạt kỷ lục 5,32 tỷ USD.
Về nhập khẩu trong 11 tháng đạt 37,29 tỷ USD, giảm 9,7%. Trong đó, nhóm nông sản 22,72 tỷ USD, giảm 9,4%; sản phẩm chăn nuôi 3,23 tỷ USD, giảm 4,8%; thuỷ sản 2,41 tỷ USD, giảm 3,4%; lâm sản 2,09 tỷ USD, giảm 27,5%; đầu vào sản xuất 6,79 tỷ USD, giảm 8,1%; muối 41,1 triệu USD, giảm 2,5%.
Về phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới (NTM), tính đến cuối tháng 11, cả nước có 6.064/8.167 xã (74,25%) đạt chuẩn nông thôn mới; 1.582 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 245 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; bình quân cả nước đạt 16,9 tiêu chí/xã; có 268 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM (đạt 41,6% số huyện cả nước). Có 20 tỉnh, thành phố có 100% số xã đạt chuẩn NTM; công nhận 10.881 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên với 5.610 chủ thể tham gia.
Ông Nguyễn Văn Việt, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch cho biết, nhiệm vụ trọng tâm trong tháng 12 là kiểm soát tốt dịch bệnh trên cây trồng, kiểm soát tốt dịch bệnh trên gia súc, gia cầm (đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi), theo dõi sát diễn biến cung cầu mặt hàng thịt lợn, tránh xảy ra đột biến về giá. Tập trung kiểm soát các hành vi nghiêm trọng về khai thác IUU Theo kết luận của Đoàn thanh tra EC lần thứ 4.
Đặc biệt trong tháng cuối năm, cần tập trung theo dõi, nắm bắt tình hình giá cả, nguồn cung các mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu, đảm bảo nguồn cung phục vụ nhu cầu trong nước và cân đối cung cầu dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn.
Dự kiến kết quả cả năm 2023, tốc độ tăng trưởng GDP NLTS ước đạt 3,3 – 3,5%; tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS ước đạt 53 tỷ USD; tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM từ 76 – 78%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02%; tỷ lệ hộ nông dân được sử dụng nước sạch hợp quy chuẩn đạt 57%.
Nguồn tin: Theo mard.gov.vn
Ý kiến bạn đọc